Công bố các quy hoạch ngành quốc gia lĩnh vực năng lượng và khoáng sản

 – Ngày 9/8/2023, tại Hà Nội, Bộ Công Thương tổ chức hội nghị công bố các quy hoạch ngành quốc gia lĩnh vực năng lượng và khoáng sản (thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050). Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên chủ trì hội nghị công bố các quy hoạch này.

Báo cáo hội nghị cho biết: Quy hoạch ngành quốc gia lĩnh vực năng lượng và khoáng sản (thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại các quyết định:

– Quyết định số: 861/QĐ-TTg ngày 18/7/2023 (Quy hoạch hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu, khí đốt quốc gia).

– Quyết định số: 866/QĐ-TTg ngày 18/7/2023 (Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản).

– Quyết định số: 893/QĐ-TTg ngày 26/7/2023 (Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia – thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050).

Theo Bộ Công Thương: Trong quá trình triển khai lập Quy hoạch, Bộ Công Thương đã tuân thủ đầy đủ, nghiêm túc các quy định của Luật Quy hoạch và các nghị quyết, nghị định có liên quan của Quốc hội, Chính phủ; chủ động phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, cơ quan trung ương và các địa phương trong việc nghiên cứu, xây dựng Quy hoạch.

Quy hoạch ngành quốc gia trong lĩnh vực năng lượng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, mở ra không gian phát triển mới cho ngành năng lượng và ngành khai khoáng Việt Nam hiệu quả hơn, bền vững hơn phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế các-bon thấp, phù hợp với các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước và khả năng thực tế của đất nước, cũng như xu thế phát triển của quốc tế.

Các quy hoạch ngành Công Thương được xây dựng trên cơ sở đã quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị về chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045; Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, cũng như phù hợp với Quy hoạch tổng thể quốc gia và các quy hoạch các ngành, lĩnh vực khác.

Trong đó, Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 hướng tới mục tiêu:

– Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hoá các loại hình năng lượng.

– Khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế tham gia phát triển năng lượng.

– Ứng dụng những thành tựu của phát triển khoa học, công nghệ trong phát triển tất cả các phân ngành, lĩnh vực năng lượng.

– Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.

– Ngành năng lượng phát triển hài hoà giữa các phân ngành với hạ tầng đồng bộ và thông minh, đạt trình độ tiên tiến của khu vực, phù hợp với xu thế phát triển khoa học, công nghệ của thế giới.

– Thực hiện thành công chuyển đổi năng lượng, góp phần quan trọng đáp ứng mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Với Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia đề xuất một loạt cơ chế mới gồm:

– Đa dạng hóa nguồn vốn, hình thức đầu tư, tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư trong lĩnh vực năng lượng.

– Phát triển thị trường năng lượng đồng bộ, liên thông giữa các phân ngành năng lượng, đưa giá năng lượng vận hành theo cơ chế thị trường cạnh tranh.

– Áp dụng các công cụ thị trường thúc đẩy tăng trưởng xanh, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, kinh tế các-bon thấp, kinh tế tuần hoàn.

– Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các loại năng lượng mới, năng lượng tái tạo phục vụ chuyển đổi năng lượng.

– Xây dựng, áp dụng thiết chế về tính kỷ luật và tuân thủ trong việc tổ chức triển khai Quy hoạch năng lượng quốc gia.

Quy hoạch hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu, khí đốt quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đặt mục tiêu phát triển hệ thống hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu, khí đốt quốc gia bao gồm:

– Dự trữ chiến lược.

– Dự trữ sản xuất, dự trữ thương mại, vận tải, lưu thông phân phối, đáp ứng các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật, môi trường, đảm bảo dự trữ, cung ứng đầy đủ, an toàn, liên tục cho phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng.

– Đảm bảo sức chứa dự trữ dầu thô và sản phẩm xăng dầu cả nước đạt 75 – 80 ngày nhập ròng, phấn đấu đạt 90 ngày nhập ròng.

– Đảm bảo sức chứa dự trữ khí đốt đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và khí nguyên liệu cho các ngành năng lượng, công nghiệp.

Còn mục tiêu của Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản là:

– Quản lý chặt chẽ, khai thác, chế biến, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên khoáng sản, gắn với nhu cầu phát triển của nền kinh tế, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và hướng tới mục tiêu đạt mức trung hòa các-bon.

– Đẩy mạnh đầu tư, hình thành ngành khai thác, chế biến đồng bộ, hiệu quả với công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại phù hợp với xu thế của thế giới.

Quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản đã phân loại cụ thể các nguồn vốn, gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn quốc tế, vốn tư nhân dành cho từng lĩnh vực. Vốn từ ngân sách nhà nước chỉ dành cho hoạt động điều tra tài nguyên, xây dựng dữ liệu về khoáng sản, hoặc nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới. Trong khi nguồn vốn của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế dành cho khai thác, chế biến, đầu tư công nghệ mới…

Các quy hoạch ngành về năng lượng và khoáng sản cũng đã tạo dựng mối kết ngành, liên kết vùng; thiết kế đồng bộ giữa kết cấu hạ tầng tổng thể các ngành năng lượng trong nước với khu vực và quốc tế, được tổ chức khoa học, thống nhất trên phạm vi cả nước, bảo đảm phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của từng vùng, từng địa phương, phù hợp với khả năng cân đối nguồn lực của toàn nền kinh tế. Đồng thời đáp ứng yêu cầu ưu tiên phát triển năng lượng nhanh và bền vững, đi trước một bước, gắn với mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, bảo vệ môi trường sinh thái.

Việc tuân thủ chính sách bảo vệ môi trường sinh thái được thực hiện đồng thời trên nhiều lĩnh vực gồm:

– Ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ trên thế giới, thúc đẩy chuyển đổi số, từng bước làm chủ công nghệ hiện đại, tiến tới tự chủ sản xuất phần lớn các thiết bị năng lượng.

– Xây dựng các cơ chế, chính sách đồng bộ, chế tài đủ mạnh để khuyến khích đầu tư và sử dụng các công nghệ hiệu suất cao, phát thải thấp, thân thiện với môi trường.

– Hoàn thiện các công cụ tài chính đối với các loại phát thải, tác động môi trường trong sản xuất và sử dụng năng lượng nhằm tạo điều kiện cho các loại hình năng lượng sạch có thể cạnh tranh được trên thị trường.

Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư, cùng với việc phát triển năng lượng theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn được xem là những điểm nhấn nổi bật trong ba quy hoạch ngành về năng lượng.

Một số mục tiêu cơ bản của ba quy hoạch ngành về năng lượng:

Thứ nhất: Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia:

– Cung cấp đủ nhu cầu năng lượng trong nước, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm (trong giai đoạn 2021 – 2030), khoảng 6,5 – 7,5%/năm (trong giai đoạn 2031 – 2050).

– Tổng nhu cầu năng lượng cuối cùng 107 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2030 và đạt 165 – 184 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2050.

– Tổng cung cấp năng lượng sơ cấp 155 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2030 và 294 – 311 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2050.

– Nâng tổng mức dự trữ xăng dầu cả nước (bao gồm cả dầu thô và sản phẩm) lên 75 – 80 ngày nhập ròng vào năm 2030. Định hướng sau năm 2030, xem xét tăng dần mức dự trữ lên 90 ngày nhập ròng.

– Về chuyển đổi năng lượng công bằng, đặt mục tiêu tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng năng lượng sơ cấp 15 – 20% năm 2030 và khoảng 80 – 85% năm 2050.

– Tiết kiệm năng lượng khoảng 8 – 10% vào năm 2030 và khoảng 15 – 20% vào năm 2050 so với kịch bản phát triển bình thường.

– Mức thải khí nhà kính khoảng 399 – 449 triệu tấn năm 2030 và khoảng 101 triệu tấn vào năm 2050. Mục tiêu cắt giảm khí nhà kính 17 – 26% vào năm 2030 khoảng 90% vào năm 2050 so với kịch bản phát triển bình thường. Hướng tới đạt mức phát thải đỉnh vào năm 2030 (với điều kiện các cam kết theo JETP được các đối tác quốc tế thực hiện đầy đủ, thực chất).

Thứ hai: Quy hoạch hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu, khí đốt:

– Về xăng dầu: Đảm bảo hạ tầng dự trữ dầu thô, nguyên liệu và sản phẩm phục vụ sản xuất, chế biến xăng dầu đáp ứng tối thiểu 20 ngày nhập ròng trong giai đoạn 2021 – 2030, đến 25 ngày nhập ròng giai đoạn sau năm 2030. Dự trữ thương mại chứa tăng thêm từ 2,5 – 3,5 triệu m3 (trong giai đoạn 2021 – 2030), đạt sức chứa tới 10,5 triệu m3 (giai đoạn sau năm 2030), đáp ứng 30 – 35 ngày nhập ròng.

Dự trữ quốc gia đảm bảo sức chứa từ 500.000 – 1 triệu m3 sản phẩm xăng dầu và 1 – 2 triệu tấn dầu thô, đáp ứng 15-20 ngày nhập ròng (trong giai đoạn 2021 – 2030); đảm bảo sức chứa từ 500.000 – 800.000 m3 sản phẩm xăng dầu và 2 – 3 triệu tấn dầu thô, đáp ứng 25 – 30 ngày nhập ròng (trong giai đoạn sau năm 2030).

– Về khí đốt: Đảm bảo hạ tầng dự trữ đối với LPG sức chứa tới 800.000 tấn (giai đoạn 2021 – 2030) và tới 900.000 tấn (giai đoạn sau năm 2030). Đối với LNG, đạt 20 triệu tấn/năm (giai đoạn 2021 – 2030) và tới 40 triệu tấn/năm (giai đoạn sau năm 2030).

Bên cạnh đó, phát triển hạ tầng cung ứng xăng dầu, khí đốt đáp ứng nhu cầu vận tải bằng đường ống từ nguồn cung ứng (nhà máy lọc dầu, kho đầu mối xăng dầu, trạm phân phối LPG và kho LNG nhập khẩu) tới các trung tâm, hộ tiêu thụ công nghiệp và dân dụng.

Thứ ba: Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản:

Mục tiêu đối với một số loại khoáng sản có trữ lượng lớn, chiến lược, quan trọng trong giai đoạn 2021 – 2030:

– Khoáng sản bô-xít: Việc thăm dò, khai thác phải gắn với chế biến sâu (tối thiểu ra đến sản phẩm alumin).

– Khoáng sản titan: Phát triển công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản titan với lộ trình và quy mô hợp lý phù hợp với từng giai đoạn, từng bước hình thành các tổ hợp công nghệ mỏ – tuyển, cụm công nghiệp chế biến khoáng sản titan đồng bộ với hạ tầng.

– Khoáng sản đất hiếm: Phát triển ngành công nghiệp khai thác, chế biến và sử dụng một cách đồng bộ, hiệu quả và bền vững. Đối với các doanh nghiệp được cấp phép mới khai thác khoáng sản đất hiếm phải gắn với dự án chế biến đến sản phẩm tối thiểu là tổng các ôxit, hydroxit, muối đất hiếm có hàm lượng TREO ≥ 95%.

– Khoáng sản niken, đồng, vàng: Hoạt động khai thác phải đi kèm dự án đầu tư chế biến một cách đồng bộ, hiệu quả, bền vững và thu hồi tối đa các khoáng sản đi kèm và đảm bảo môi trường./.

Nguồn copy BBT TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM